Tin tức buổi sáng

【Thông tin về bông】

1. Theo Mạng lưới Kiểm định và Chứng nhận Chất lượng Bông Trung Quốc, tính đến ngày 2 tháng 4 năm 2023, Tân Cương đã kiểm định 6.064.200 tấn xơ bông vụ 2020/23. Trong vụ 2022/23, số lượng doanh nghiệp kiểm định bông tại Tân Cương đạt 973, trong khi các vụ 2019/20, 2020/21 và 2021/22 lần lượt có số lượng doanh nghiệp kiểm định là 809, 928 và 970, cho thấy sự tăng trưởng liên tiếp trong bốn năm.

Ngày 2 tháng 4, giá bông Zheng tiếp tục xu hướng biến động mạnh, hợp đồng CF2305 mở cửa ở mức 14310 nhân dân tệ/tấn, cuối cùng tăng 15 điểm, đóng cửa ở mức 14335 nhân dân tệ/tấn. Nguồn cung giao ngay tăng, giá bông biến động nhẹ, giao dịch duy trì yếu, giao dịch sợi bông hạ nguồn đi ngang, các đơn đặt hàng đầu kỳ dần được hoàn thành, các đơn đặt hàng tiếp theo vẫn chưa đủ, các doanh nghiệp dệt may mua vào thận trọng, tồn kho thành phẩm tích lũy. Nhìn chung, tâm lý kinh tế vĩ mô được cải thiện, trọng tâm thị trường dần chuyển sang khu vực trồng trọt và các đơn đặt hàng hạ nguồn, khó có xu hướng rõ ràng trong ngắn hạn, cần xử lý các biến động mạnh.

Ngày 3, giá bông giao ngay trong nước ổn định. Vào ngày thứ 3, chênh lệch giá ổn định, chênh lệch giá hợp đồng CF305 của một số kho Tân Cương (31 cặp 28/29 cặp) dao động từ 350-900 nhân dân tệ/tấn. Một số kho bông nội địa Tân Cương (31 cặp 28/29 cặp) tương ứng với hợp đồng CF305 có tạp chất 3.0 có chênh lệch giá từ 500-1100 nhân dân tệ/tấn. Thị trường tương lai ngày 3 tương đối ổn định, giá bông giao ngay ít thay đổi, một số doanh nghiệp tăng nhẹ giá từ 30-50 nhân dân tệ/tấn, các doanh nghiệp bông có động lực bán hàng tốt, khối lượng giao dịch sôi động. Giá sợi thành phẩm dệt may tại các doanh nghiệp dệt may hạ nguồn vẫn ổn định. Hiện tại, đơn đặt hàng trong nước vẫn tốt, nhưng có dấu hiệu suy yếu. Sự suy yếu của đơn đặt hàng nước ngoài vẫn tiếp diễn. Theo hiểu biết hiện tại, giá giao hàng bông loại 21/31 đôi 28 hoặc đơn 29 tại kho Tân Cương, bao gồm cả các loại khác chiếm 3,1%, dao động từ 14.500 đến 15.700 nhân dân tệ/tấn. Một số nguồn bông tại đại lục có giá chênh lệch, trong đó loại 31 đôi 28 hoặc đơn 28/29 có giá giao hàng từ 15.200 đến 15.800 nhân dân tệ/tấn.

4. Theo phản hồi từ các doanh nghiệp kinh doanh bông tại Thanh Đảo, Trương Gia Cảng và các nơi khác, với sự phục hồi mạnh mẽ của giá bông tương lai ICE tuần trước và chi phí lưu kho tăng cao, sự hăng hái của các doanh nghiệp bông trong việc báo giá và vận chuyển đã phục hồi đáng kể so với đầu và giữa tháng 3. Do các nhà giao dịch tăng biên độ cơ sở của bông thông quan và bông kho ngoại quan tại một số cảng, và ngành dệt bông tiếp tục ở trong tình trạng ảm đạm “kỳ vọng cao nhưng thực tế yếu”, các nhà máy dệt bông hạ nguồn và các nhà trung gian đang thận trọng tích trữ hàng. Một nhà nhập khẩu bông cỡ trung bình ở Hoàng Đảo cho biết, giá ICE chủ yếu vượt qua ngưỡng kháng cự 80 cent/lb, sự hăng hái hỏi mua của khách hàng cũ từ Sơn Đông, Hà Nam, Hà Bắc, Giang Tô và các nơi khác đã giảm đáng kể, hiện tại chỉ có các nguồn cung bằng Nhân dân tệ giao dịch không thường xuyên. Theo điều tra, do sự chênh lệch lớn về chi phí lưu kho bông giao ngay từ Mỹ, Brazil và châu Phi của các nhà giao dịch, việc báo giá bằng Nhân dân tệ đối với hàng hóa vận chuyển bằng tàu, kho ngoại quan và thông quan khá hỗn loạn, gây ra một số khó khăn cho việc hỏi mua và thu mua của các nhà máy bông.

5. Từ ngày 24 đến 30 tháng 3 năm 2023, giá giao ngay trung bình của bông loại tiêu chuẩn tại bảy thị trường nội địa ở Hoa Kỳ là 78,66 cent/pound, tăng 3,23 cent/pound so với tuần trước, nhưng giảm 56,20 cent/pound so với cùng kỳ năm ngoái. Trong tuần đó, 27.608 kiện bông đã được giao dịch trên bảy thị trường giao ngay nội địa lớn nhất, nâng tổng số lượng giao dịch trong niên vụ 2022/23 lên 521.745 kiện. Giá giao ngay bông cao nguyên tại Hoa Kỳ đang tăng, nhu cầu nước ngoài tại Texas thấp, nhu cầu tại Ấn Độ, Đài Loan và Việt Nam tốt nhất, nhu cầu nước ngoài tại vùng sa mạc phía Tây và vùng San Jokin thấp, giá bông Pima đang giảm, nông dân trồng bông muốn chờ nhu cầu và giá cả phục hồi trước khi bán, nhu cầu nước ngoài thấp, thiếu cầu tiếp tục kìm hãm giá bông Pima. Trong tuần, các nhà máy trong nước đã hỏi mua bông loại 4 cho các lô hàng quý 2-4, và hoạt động mua hàng vẫn thận trọng do nhu cầu sợi vẫn yếu và một số nhà máy vẫn tạm ngừng hoạt động. Nhu cầu xuất khẩu bông của Mỹ nhìn chung ổn định, khu vực Viễn Đông có nhiều yêu cầu mua các loại bông có giá đặc biệt.

【Thông tin về sợi】

Giá sợi bông kỳ hạn 1, 3 giảm, thị trường giữ mức hỗ trợ thấp và đi ngang, giá sợi riêng lẻ điều chỉnh giảm nhẹ, giảm 50-100 nhân dân tệ/tấn, mức hỗ trợ cao vẫn chặt chẽ, giá chào bán sợi chải kỹ 60% trên 30.000 nhân dân tệ/tấn. Hầu hết các đơn đặt hàng của các doanh nghiệp dệt may được nhận vào cuối tháng 4, các đơn đặt hàng ngắn hạn không đáng lo ngại, tiến độ xây dựng cao, nhưng thị trường kỳ hạn không mấy lạc quan, các đơn đặt hàng mới ở khâu hạ nguồn giảm dần, hoạt động mua và thu mua ở khâu hạ nguồn không sôi động. Về mua nguyên liệu, hầu hết các nhà máy dệt may đã bổ sung hàng tồn kho ở mức 14.000 nhân dân tệ hoặc thấp hơn vào giai đoạn đầu, và lượng hàng tồn kho hiện tại là đủ. Với giá kỳ hạn tăng lên hơn 14.200 nhân dân tệ, sức mua bông tổng thể của các doanh nghiệp dệt may bị suy yếu, và tâm lý chờ đợi đang gia tăng.

2. Chính sách giá mới của các nhà máy sản xuất sợi viscose staple lớn trong nước đã được thực hiện. Giá chào bán các loại sợi dệt thông thường là 13.400 nhân dân tệ/tấn, thấp hơn 100 nhân dân tệ/tấn so với giá chào bán trước đó, và vẫn còn chiết khấu để đáp ứng điều kiện giao hàng, với biên độ khoảng 200 nhân dân tệ/tấn. Thực tế là có ưu đãi khi thương lượng trực tiếp. Toàn bộ lượng hàng tồn kho ở giai đoạn đầu chỉ cần khách hàng bổ sung. Bây giờ chúng tôi bắt đầu thương lượng và ký kết đơn đặt hàng. Thị trường đang quan tâm đến vòng ký kết này, hiện tại giá thấp nhất là 12.900-13.100 nhân dân tệ/tấn, giá cao nhất khoảng 13.100-13.200 nhân dân tệ/tấn.

3. Sau triển lãm sợi, việc bổ sung sợi nhập khẩu gần đây có phần chững lại, giá sợi ngoại nhập vẫn đang giảm, nhưng do công suất của các nhà máy sợi nước ngoài vẫn đang phục hồi chậm nên không có áp lực tồn kho, do đó lợi thế về giá không rõ rệt. Bị ảnh hưởng bởi sự suy yếu của nhu cầu hạ nguồn, niềm tin giao dịch của thị trường sợi bông tương đối kém. Giá sợi nhập khẩu chủ yếu ổn định. Không thiếu nguồn cung giá thấp trên thị trường, và lực hỗ trợ giá vẫn còn yếu. Về giá cả: Đơn đặt hàng dệt kim hạ nguồn tại thị trường Phật Sơn, Quảng Đông tiếp tục giảm, giá giao dịch sợi dệt kim C32S phân phối cao trong nước khoảng 22800 nhân dân tệ/tấn, thực tế có chiết khấu giao dịch đơn lẻ. Gần đây, giao dịch sợi kéo sợi khí nhập khẩu tại thị trường Lan Tây có phần yếu. Giá sợi tẩy trắng đóng gói OEC21S của Việt Nam gần 19300 nhân dân tệ/tấn với chất lượng thấp và thuế.

4. Hiện tại, giá sợi ngoại dệt nhập khẩu ổn định và có xu hướng giảm, trọng tâm giá sợi bông Ấn Độ tiếp tục giảm, với sợi se chặt và sợi se khít giảm nhẹ; Nhìn chung các thị trường khác ít biến động; Ngoài ra, do tác động vĩ mô của những biến động tỷ giá đô la gần đây cần thường xuyên chú ý. Về giá cả: Giá bông chải kỹ Việt Nam ổn định, trọng tâm giao dịch giảm nhẹ, giá chào bán sợi dệt C32S của nhà máy bông ở mức 2,99 USD/kg, tương đương 23.700 nhân dân tệ/tấn, giao hàng tháng 5, thư tín trả ngay; Giá chào bán sợi se chặt Ấn Độ đã giảm nhẹ. Giá chào bán sợi dệt JC32S se chặt hàng đầu của các nhà buôn có thể đạt 3,18 USD/kg, tương đương 26.100 nhân dân tệ/tấn, giao hàng cuối tháng 4 và tháng 5, thư tín 30 ngày.

[Thông tin về in và nhuộm vải xám]

1. Gần đây, giá bông trên thị trường tương đối ổn định, và lượng đơn đặt hàng đã tăng so với giai đoạn trước. Hầu hết các đơn đặt hàng đều dành cho thị trường nội địa, và các loại phổ biến chủ yếu là loại 32/40, vải cotton và polyester cotton mỏng vừa phải. (Ban quản lý blog – Zhang Zhongwei)

2. Gần đây, thị trường dệt may gia dụng trong nước đã khởi sắc hơn, giá các loại vải thông thường ổn định, nguồn cung vải thô khan hiếm, dẫn đến tình trạng xếp hàng chờ mua, nay đã được cải thiện. Do nguồn cung sợi có chỉ số dệt cao, thời gian giao hàng các loại vải dệt cố định bị kéo dài. Các đơn đặt hàng trong nước của các nhà máy in nhuộm thường rất bận rộn, thời gian giao hàng từ 15 đến 20 ngày, các đơn đặt hàng của các nhà máy nhuộm chuyên xuất khẩu cũng khá nhiều, nhưng họ cũng đang tìm kiếm cơ hội đột phá trong các đơn đặt hàng trong nước. (Yu Weiyu, Phòng Dệt may Gia dụng)

3. Gần đây, phần lớn đơn đặt hàng trong nước ổn định, thị trường xuất khẩu ảm đạm, khách hàng chủ yếu hỏi thông tin và đặt hàng, nhưng đơn hàng thực tế vẫn chưa có nhiều. Giá sợi tương đối ổn định, một số loại thông thường có giá tốt khi mua số lượng lớn. Các loại sợi khác biệt, các loại đặc biệt được khách hàng hỏi mua nhiều hơn bình thường, việc vận chuyển vải thô thông thường sang vải thành phẩm dày dặn, khách hàng về cơ bản không còn dự trữ, mà chủ yếu đặt hàng theo yêu cầu.


Thời gian đăng bài: 04/04/2023